Mở rộng
bao phủ BHYT luôn là mục tiêu được đặt ra đối với tất cả hệ thống BHYT của các
quốc gia. Để tăng tỷ lệ bao phủ BHYT, Việt Nam cũng như nhiều quốc gia áp dụng
2 chính sách và mang lại hiệu quả lớn, đó là sử dụng ngân sách nhà nước (NSNN)
để đóng, hoặc hỗ trợ đóng BHYT và quy định tham gia BHYT bắt buộc theo hộ gia
đình.

(Ảnh minh họa: Mở rộng bao phủ BHYT luôn là mục tiêu được đặt ra
đối với tất cả hệ thống BHYT của các quốc gia)
Sử dụng ngân sách nhà nước để
tăng tỷ lệ bao phủ BHYT
Kinh
nghiệm ở nhiều nước cho thấy, trong quá trình mở rộng diện bao phủ của BHYT tới
nhóm dân cư ở khu vực phi chính quy không thể thiếu được vai trò tài trợ của
NSNN, đặc biệt tại các nước đang phát triển.
Tại
Malaysia, tất cả dịch vụ y tế cung ứng tại vùng nông thôn (chủ yếu là dịch vụ
chăm sóc sức khoẻ ban đầu và khám bệnh ngoại trú) được chi trả từ NSNN nên người
dân được sử dụng miễn phí. Tại thành thị, đa số là các dịch vụ được cung cấp bởi
các bệnh viện nhưng cũng do NSNN bao cấp phần lớn. Để đạt mục tiêu chăm sóc sức
khoẻ toàn dân, Chính phủ Malaysia dự kiến phát triển BHYT thông qua việc thiết
lập Hệ thống tài chính y tế quốc gia. NSNN sẽ cung cấp tài chính cho người
nghèo, người tàn tật, công chức và người nghỉ hưu tham gia BHYT. Như vậy, khi
triển khai hệ thống này, nhà nước thể hiện vai trò rất lớn trong việc cung cấp
tài chính cho chăm sóc sức khoẻ tại Malaysia.
Tại
Trung Quốc, chương trình BHYT nông thôn mới dành cho người dân nông thôn là một
ví dụ điển hình minh chứng cho sự thành công của việc mở rộng độ bao phủ BHYT.
Bắt đầu từ năm 2003, tỷ lệ bao phủ BHYT vùng nông thôn chỉ đạt 13% nhưng sau 5
năm tỷ lệ này đã tăng lên là 92% và đến năm 2011 đạt 95%. Mức trợ cấp từ ngân
sách trung ương và ngân sách địa phương cho BHYT tăng dần qua các năm từ 66%
lên 80% và mới đây là 90% mệnh giá BHYT.
Tại
Thái Lan nổi tiếng với chương trình 30 Bạt để đạt mục tiêu bao phủ chăm sóc sức
khoẻ toàn dân. Đây là chương trình chăm sóc sức khỏe cho tất cả công dân Thái
Lan chưa tham gia chương trình BHYT mà chủ yếu là nông dân và người lao động tự
do bằng nguồn tiền từ NSNN. Theo đó, những người tham gia chương trình này phải
đăng ký với các cơ sở y tế, được cấp một thẻ BHYT miễn phí và đóng một khoản tiền
là 30 Bạt (tương đương 0,75 USD) cho mỗi lần khám chữa bệnh ngoại trú hoặc điều
trị nội trú; thuốc kê đơn được cấp miễn phí. Theo chương trình chăm sóc sức khỏe
này, tỷ lệ người dân không có BHYT ở Thái Lan đã giảm từ mức 30% năm 2000 xuống
còn 5% năm 2003.
Quy định tham gia BHYT bắt buộc
theo hộ gia đình
Tại Mông
Cổ, Luật BHYT được ban hành từ năm 1994 với những thay đổi chính sách quan trọng:
Chuyển đơn vị tham gia BHYT từ cá nhân sang hộ gia đình; các cơ sở cung ứng dịch
vụ y tế cho BHYT phải được công nhận chất lượng; thực hiện thanh toán theo định
suất đối với bệnh viện. Mông Cổ rất chú trọng đến việc nâng cao hệ thống quản
lý thông tin và năng lực của cơ quan BHYT trong việc đạt các thỏa thuận với các
cơ sở khám chữa bệnh và đảm bảo chất lượng dịch vụ y tế.
Tại Đài
Loan, BHYT được triển khai thực hiện từ năm 1995 theo hình thức bắt buộc với tất
cả mọi người dân. Tỷ lệ bao phủ BHYT hiện nay là 99% dân số bởi Đài Loan áp dụng
chính sách người lao động phải đóng BHYT cho người ăn theo.
Tại Nhật
Bản, triển khai BHYT bắt buộc áp dụng đầu tiên đối với khu vực lao động chính
thức vào năm 1927. Đến năm 1938, chương trình BHYT cộng đồng dành cho các đối
tượng lao động phi chính thức được khởi động, theo đó, những người không phải
là lao động hưởng lương trong các doanh nghiệp bắt buộc phải tham gia BHYT tại
các quỹ BHYT trên địa bàn cư trú. Năm 1943, Nhật Bản thực hiện chương trình
BHYT cho thân nhân người lao động. Quy định bắt buộc đóng góp tham gia BHYT được
Nhật Bản thực hiện nghiêm ngặt thông qua kiểm soát thu nhập cá nhân hằng năm của
các đối tượng không thuộc khu vực chính thức. Bằng các chính sách này, Nhật Bản
đã đạt bao phủ BHYT bắt buộc năm 1961.
Tại Hàn
Quốc, Luật BHYT được ban hành năm 1963. Chính phủ nước này xác định mục tiêu
BHYT toàn dân trong bối cảnh chủ yếu là các mô hình BHYT tự nguyện cộng đồng. Đến
năm 1977, Hàn Quốc áp dụng quy định tham gia BHYT bắt buộc đối với các doanh
nghiệp. Quy định tham gia bắt buộc được Chính phủ Hàn Quốc mở rộng dần tới các
đối tượng trong xã hội, đến năm 1989, Hàn Quốc tuyên bố đạt mục tiêu BHYT toàn
dân.
Để đạt
BHYT toàn dân nhất thiết phải có quy định bắt buộc tham gia. Đây là kết luận được
đưa ra trong nhiều phân tích quốc tế về kinh nghiệm thực hiện BHYT. Theo phân
tích của các chuyên gia, trong số các yếu tố làm hạn chế việc mở rộng bao phủ
BHYT thì việc không triển khai BHYT cho thân nhân người lao động là một yếu tố
đầu tiên được kể đến. Do đó, lựa chọn hình thức tham gia BHYT theo hộ gia đình
sẽ đẩy nhanh việc mở rộng độ bao phủ, tăng mức độ chia sẻ rủi ro giữa các thành
viên tham gia BHYT và giảm tình trạng lựa chọn ngược./.
Theo Tạp chí tài chính